Lycopene - nó là gì? Sản phẩm hàng đầu, đặc tính hữu ích

Mục lục:

Lycopene - nó là gì? Sản phẩm hàng đầu, đặc tính hữu ích
Lycopene - nó là gì? Sản phẩm hàng đầu, đặc tính hữu ích
Anonim

Lycopene là gì?

Lycopene là một sắc tố đỏ có tác dụng phân hủy chất béo. Được tìm thấy chủ yếu trong cà chua. Lycopene thuộc về một họ sắc tố được gọi là carotenoid. Đổi lại, carotenoid là một sắc tố tự nhiên chịu trách nhiệm về màu sắc tươi sáng của lá mùa thu, hoa tươi, trái cây và rau quả. Màu sắc của trái cây và rau quả từ vàng tươi (một số loại bí ngô), đến cam (bí ngô và cà rốt), và đỏ (cà chua và ớt).

Nhu cầu hàng ngày được đề xuất cho lycopene là 5-7,5 mg.

Lycopene là chất chống oxy hóa

Image
Image

Các nhà nghiên cứu hiện đại đã nghiên cứu về lycopene khá kỹ lưỡng. Lycopene có đặc tính chống oxy hóa. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng chế độ ăn giàu lycopene có thể làm giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt và bệnh tim mạch.

Tại Đại học Harvard vào giữa những năm 1990, các nghiên cứu được thực hiện trong đó họ phát hiện ra rằng trong số 50.000 nam giới ăn cà chua 10 lần trở lên mỗi tuần (cà chua có nhiều lycopene), nguy cơ mắc bệnh trong một số trường hợp, ung thư tuyến tiền liệt giảm 34%. Chất chống oxy hóa giúp chống lại ung thư, bảo vệ tế bào khỏi tác hại của các gốc tự do, do đó làm chậm quá trình lão hóa.

Chất chống oxy hoá chống lại các gốc tự do được tạo ra khi tế bào của chúng ta chuyển hoá oxy thành năng lượng. Chất chống oxy hóa có thể giữ cho hệ thống miễn dịch khỏe mạnh, đồng thời giảm nguy cơ mắc một số dạng ung thư và các bệnh khác. Các loại vitamin như vitamin C, E, beta-carotene và lycopene cùng một số vitamin khác là những chất chống oxy hóa hiệu quả.

Ngoài ra, chất chống oxy hóa đã được chứng minh là có tác dụng hữu ích đối với bệnh tim. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng những người đàn ông có nồng độ lycopene cao trong cơ thể có nguy cơ bị đau tim thấp hơn 50% so với những người có nồng độ thấp. Như các nhà nghiên cứu đề xuất, hàm lượng lycopene trong cơ thể trực tiếp phụ thuộc vào lượng của nó trong chế độ ăn uống.

Tính chất của lycopene

Lycopene giúp bình thường hóa quá trình chuyển hóa cholesterol, kích hoạt quá trình tiêu hóa. Lycopene bình thường hóa sự thèm ăn, ức chế hệ vi sinh đường ruột gây bệnh, ngăn ngừa sự phát triển của xơ vữa động mạch, duy trì sự cân bằng axit-bazơ bình thường, thúc đẩy giảm cân. Nó có đặc tính kháng khuẩn và kháng nấm, tăng cường thành mạch và mao mạch, có tác dụng hữu ích cho da mặt, nuôi dưỡng và trẻ hóa, đặc biệt là da khô, nhăn và nám. Như một loại thuốc dự phòng chống lại các chứng rối loạn gan khác nhau.

Vì lycopene là một chất chống oxy hóa mạnh, nó có thể tiêu diệt các gốc tự do - những phân tử phản ứng phá hủy màng tế bào, tấn công DNA, và do đó gây ra nhiều bệnh khác nhau. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những bệnh nhân bị nhiễm HIV, cảm lạnh và mức cholesterol cao (có và không có liệu pháp giảm mỡ) có thể có lượng lycopene trong máu thấp. Hàm lượng lycopene trong máu không phải lúc nào cũng giảm do hút thuốc lá và uống rượu, không giống như các carotenoid khác. Điều này bị ảnh hưởng bởi quá trình lão hóa.

Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng chế độ ăn kiêng lycopene làm giảm nguy cơ mắc một số bệnh mãn tính, chẳng hạn như bệnh tim mạch, ung thư và thoái hóa điểm vàng do tuổi tác. Là một chất chống oxy hóa, lycopene ngăn chặn quá trình oxy hóa lipoprotein mức độ thấp, tức là cholesterol xấu, dẫn đến xơ vữa động mạch (giảm khả năng lưu thông động mạch) và bệnh mạch vành.

Khi mức lycopene tăng lên, mức độ oxy hóa của các thành phần lipoprotein, protein và DNA sẽ giảm, do đó làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim. Từ đó chúng ta có thể kết luận rằng những người có lượng lycopene cao, nguy cơ mắc bệnh tim chỉ bằng một nửa so với những người có lượng lycopene thấp. Một lần nữa, có mối liên hệ trực tiếp giữa lượng lycopene và giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt và ung thư dạ dày. Trong các ghi chú về các bệnh này, lycopene là carotenoid duy nhất góp phần làm giảm nguy cơ mắc các bệnh này.

Nghiên cứu lâm sàng được thực hiện vào cuối năm 2001 trên bệnh ung thư tuyến tiền liệt cho thấy việc sử dụng lycopene làm giảm đáng kể tốc độ phát triển của tế bào ung thư. Phương pháp này làm giảm sự lây lan của các tế bào ung thư khoảng 73%.

Nếu bạn ăn cà chua ít nhất hai lần một tuần, bạn có thể giảm nguy cơ ung thư đến 34%. Ít nhất đó là những gì Viện Ung thư Dana-Farber nói. Trong số 46 loại trái cây và rau quả trong nghiên cứu, chỉ có cà chua được chứng minh là có tác dụng giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Ngoài ra, có một số bằng chứng y tế chứng minh rằng thường xuyên ăn cà chua giàu lycopene giúp giảm nguy cơ ung thư đường tiêu hóa.

Thực phẩm chứa lycopene

Sản phẩm có chứa lycopene
Sản phẩm có chứa lycopene

Vì cơ thể con người không tự sản xuất lycopene, nên nó phải được sử dụng cùng với thực phẩm.

Lycopene được tìm thấy trong các loại thực phẩm như:

  • Sốt mì Ý
  • Nước ép cà chua
  • Tương cà
  • Sốt pizza

Người giữ kỷ lục trong số các loại trái cây và rau quả về hàm lượng lycopene là:

  • Cà chua đỏ (một quả cà chua chứa trung bình 1,5mg lycopene)
  • Dưa hấu
  • Hồng tiêu
  • Bưởi hồng
  • Bất kỳ loại rau đỏ nào khác. Trái cây cũng chứa lycopene, nhưng với lượng nhỏ hơn.

Hầu hết tất cả lycopene trong bột cà chua, chỉ cần 1 muỗng canh là đủ đáp ứng nhu cầu lycopene hàng ngày. Sốt cà chua chứa lượng lycopene nhiều hơn 30 lần so với cà chua tươi và gấp 6 lần so với tương cà.

Mặc dù thực tế là nguồn lycopene chính cho con người là cà chua hoặc các sản phẩm làm từ chúng, khả dụng sinh học của loại enzyme này khá khác nhau. Khi chế biến nước sốt, cà chua được hầm trong dầu, đồng thời sự hấp thụ lycopene tăng lên, vì enzyme này hòa tan trong chất béo. Khi cà chua được đun nóng, công thức hóa học của lycopene sẽ chuyển thành một dạng khác, giúp cơ thể dễ tiêu hóa hơn rất nhiều. Như một nghiên cứu đã chỉ ra, lycopene từ bột cà chua được hấp thụ nhanh hơn 2,5 lần so với rau tươi.

Mặc dù thực tế là không có khuyến nghị dinh dưỡng cụ thể, theo nghiên cứu, uống hai cốc (khoảng 540 ml) nước ép cà chua mỗi ngày, một người nhận được khoảng 40 miligam lycopene. Theo các nghiên cứu liên quan đến dinh dưỡng hàng ngày của con người thì lượng này đủ để giảm đáng kể quá trình oxy hóa của cholesterol xấu.

Đề xuất: